Scholar Hub/Chủ đề/#hội chứng động mạch chủ cấp/
Hội chứng động mạch chủ cấp (ACs) là một tình trạng y tế khẩn cấp, có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Đây là một tình trạng bệnh lý liên quan ...
Hội chứng động mạch chủ cấp (ACs) là một tình trạng y tế khẩn cấp, có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Đây là một tình trạng bệnh lý liên quan đến động mạch chủ trong cơ thể, gây ra sự cản trở trong dòng chảy máu và làm gián đoạn cung cấp máu đến một phần cơ thể.
ACs thường xảy ra do một động mạch chủ bị tắc hoặc bị vỡ, gây ra sự gián đoạn đột ngột trong dòng chảy máu. Các triệu chứng của ACs phụ thuộc vào vị trí và phạm vi của tắc nghẽn hoặc vỡ động mạch chủ. Tùy thuộc vào vị trí bị ảnh hưởng, ACs có thể gây ra đau cơ, suy giảm hoạt động cơ bản, gây nguy hiểm đối với tính mạng và có thể gây tử vong.
Một số ví dụ phổ biến về ACs bao gồm hội chứng động mạch chủ cố định (ACS), hội chứng động mạch chủ não cấp (ACVS) và hội chứng động mạch chủ trung ương cấp (ACAC). Trong các tình huống khẩn cấp này, việc triển khai sơ cứu và điều trị nhanh chóng là rất quan trọng để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
Hội chứng động mạch chủ cấp có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe và có thể gây ra tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Có ba loại chính của ACs:
1. Hội chứng động mạch chủ cố định (ACS): ACS xảy ra khi có sự cản trở trong lưu lượng máu tới tim do động mạch chủ bị tắc, thường do tổn thương hoặc xơ vữa mạch tạo thành trong thành động mạch. Khi điều này xảy ra, có nguy cơ cao cho sự phát triển của các cục máu và hình thành cục máu đông, gây tắc nghẽn hoặc hoàn toàn chặn luồng máu tới một phần của tim. Khi bị tắc, khu vực tim bị thiếu máu và oxy, dẫn đến đau ngực (thủng tim) và trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, có thể dẫn đến cơn đau tim hoặc tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
2. Hội chứng động mạch chủ não cấp (ACVS): ACVS xảy ra khi động mạch chủ não (động mạch đưa máu tới não) bị tắc hoặc vỡ. Điều này có thể gây ra cơn đột quỵ. Cơn đột quỵ là một sự gián đoạn trong cung cấp máu và oxy tới một phần của não, gây ra các triệu chứng như mất cân bằng, tê liệt, khó nói và khó thực hiện các hoạt động hàng ngày. Nếu không được điều trị kịp thời, ACVS có thể dẫn đến tổn thương não và khả năng sống sót bị suy giảm.
3. Hội chứng động mạch chủ trung ương cấp (ACAC): ACAC xảy ra khi động mạch chủ trung ương (động mạch chính đi qua phần giữa của cơ thể) bị tắc hoặc vỡ. Điều này có thể gây ra việc cung cấp máu và oxy không đủ tới các bộ phận của cơ thể như tim, não, lòng tạng và chi dưới. Điều này có thể gây ra các triệu chứng như đau ngực, suy tim, thiếu oxy và suy giảm chức năng các bộ phận.
Việc chẩn đoán hội chứng động mạch chủ cấp thường dựa trên triệu chứng và các kết quả khám bệnh, cùng với việc sử dụng các công cụ hình ảnh như siêu âm, CT scan hoặc xét nghiệm máu. Điều trị tùy thuộc vào loại ACs và mức độ nghiêm trọng, bao gồm sử dụng thuốc, quản lý cơ bản, phẫu thuật và các biện pháp phục hồi. Điều quan trọng là đặt sự ưu tiên vào việc triển khai sơ cứu nhanh chóng và tìm kiếm sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp để giảm nguy cơ tử vong.
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ HÌNH THÁI TỔN THƯƠNG TRONG HỘI CHỨNG ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC CẤPMục tiêu: khảo sát tỷ lệ và mô tả một số đặc điểm về hình thái tổn thương trong hội chứng ĐMC ngực cấp ở nhóm bệnh nhân được nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu, hàng loạt các trường hợp. Bn được chẩn đoán một trong các thể của HC ĐMC ngực cấp và được điều trị tại khoa phẫu thuật tim, bệnh viện Chợ Rẫy và khoa phẫu thuật tim mạch, bệnh viện Đại Học Y Dược trong thời gian từ tháng 9/2015 đến tháng 9/2018. Kết quả: Trong thời gian 3 năm (9/2015- 9/2018), chúng tôi thu thập được 102 trường hợp được chẩn đoán hội chứng ĐMC cấp. Sau khi được hội chẩn tim mạch, có 101 ca được điều trị phẫu thuật. Nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là độ tuổi 61-70 tuổi (45,8%). Các dạng hình thái tổn thương: Nhóm bóc tách kinh điển (AD) chiếm tỷ lệ cao nhất 66,3%, nhóm phình dọa vỡ (AAR) là 23,8%, nhóm loét thủng (PAU) là 8,9%, nhóm huyết khối tụ thành (IMH) là 23,8%. Trong HC ĐMC cấp, vị trí tổn thương chủ yếulà ĐMC ngực đoạn lên (74,3%). Các vị trí khác có tỷ lệ tổn thương ít gặp hơn, tổn thương đoạn quai (54,5%), tổn thương đoạn gốc ĐMC (29,7%). Kết luận: Hình thái tổn thương trong hội chứng ĐMC ngực cấp khá đa dạng và phức tạp, thường gặp vẫn là dạng hình thái bóc tách ĐMC kinh điển (AD) chiếm tỷ lệ cao nhất 66,3%; các hình thái ít gặp hơn là loét thủng PAU 8,9% và huyết khối tụ thành IMH 23,8%. Tổn thương có thể gặp ở nhiều vị trí khác nhau và chồng lấn lên nhau, thường gặp nhất là ĐMC đoạn lên là 74,3%. đoạn quai 54,4%.
#Hội chứng động mạch chủ cấp #bóc tách #Huyết khối tụ thành #phình ĐMC
Vai trò của can thiệp nội mạch trong điều trị huyết khối thành động mạch chủ ngựcĐặt vấn đề: Huyết khối thành động mạch chủ là một dạng của hội chứng động mạch chủ cấp. Trong các phương pháp điều trị hiện nay, can thiệp nội mạch có vai trò ngày càng quan trọng. Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của can thiệp nội mạch trong điều trị huyết khối thành động mạch chủ. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca hồi cứu các bệnh nhân huyết khối thành động mạch chủ được can thiệp nội mạch từ 12/2017 đến 06/2019 tại Khoa Phẫu thuật Tim mạch Bệnh viện ĐHYD TPHCM. Kết quả: Có 27 trường hợp huyết khối thành động mạch chủ được điều trị. 16 trường hợp điều trị ngoại khoa hoặc can thiệp nội mạch và 11 trường hợp điều trị nội khoa. Có 9 trường hợp loại A theo Stanford: 6 trường hợp phẫu thuật mở và 3 trường hợp đặt ống ghép nội mạch. 7 trường hợp còn lại là loại B cần can thiệp nội mạch. Không có tử vong trong nhóm đặt ống ghép và chuyển thành bóc tách kinh điển. 1 trường hợp hẹp động mạch đùi sau phẫu thuật cần tạo hình. 90% hấp thu hoàn toàn huyết khối nội thành tại thời điểm 6 tháng sau can thiệp. Kết luận: Đặt ống ghép nội mạch là một phương pháp hứa hẹn với kết quả ban đầu khả quan, cần có số lượng bệnh nhân lớn và theo dõi lâu dài để chứng minh hiệu quả của phương pháp này
#Huyết khối thành động mạch chủ #hội chứng động mạch chủ cấp #can thiệp nội mạch
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA HỘI CHỨNG ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC CẤPMục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị ngoại khoa hội chứng ĐMC ngực cấp ở nhóm bệnh nhân được nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp: Mô tả tiến cứu, hàng loạt các trường hợp bệnh nhân có HCĐMC ngực cấp được điều trị ngoại khoa tại khoa phẫu thuật tim, bệnh viện Chợ Rẫy và khoa phẫu thuật tim mạch, bệnh viện Đại Học Y Dược trong thời gian từ tháng 9/2015 đến tháng 9/2018. Kết quả: Trong thời gian 3 năm (9/2015- 9/2018), chúng tôi thu thập được 102 trường hợp được chẩn đoán hội chứng ĐMC cấp. Sau khi được hội chẩn tim mạch, có 101 ca được điều trị phẫu thuật. Phân tầngđược các tổn thương và xác định phạm vi can thiệp: thay ĐMC lên và quai: có tỷ lệ cao nhất (54,5%); thay ĐMC lên và bán quai: có tỷ lệ ít nhất (20,8%); xử trí thay 1 đoạn ĐMC đơn thuần là thường gặp (24,8%); trong đó chỉ có 6 TH được phẫu thuật kết hợp can thiệp nội mạch. Tỷ lệ tử vong sớm trong thời gian nằm viện là 22,7 % (23/101). Nguyên nhân tử vong sớm: thường gặp là viêm phổi và TBMMN. Biến chứng thường gặp nhất: TBMMN (25,7%), viêm phổi (37,6%). Kết quả trung hạn: thời gian theo dõi trung bình là 32,2 tháng. Ghi nhận: có 8 trường hợp mất dấu theo dõi và có thêm 7 TH tử vong trong suốt thời gian theo dõi. Tỷ lệ sống còn của nghiên cứu theo đồ thị Kaplan-Meier là: 69%. Kết luận: Điều trị phẫu thuật vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách. Phạm vi xử trí tập trung đoạn lên và quai chiếm tỷ lệ cao. Thay ĐMC lên và quai (54,5%); thay ĐMC lên và bán quai (20,8%). Nhiều biến chứng sau mổ được ghi nhận với tỷ lệ khác nhau. Tỷ lệ tử vong sớm trong thời gian nằm viện là 22,7%. Trong suốt thời gian theo dõi là 32,2 tháng, tỷ lệ sống còn theo đồ thị Kaplan- Meier là 69%.
#Hội chứng ĐMC cấp #Bóc tách ĐMC #Huyết khối tụ thành #Loét xuyên thành #phình ĐMC dọa vỡ
LIÊN QUAN GIỮA DẤU HIỆU T ÂM Ở CHUYỂN ĐẠO AVL TRÊN ĐIỆN TÂM ĐỒ VỚI TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH LIÊN THẤT TRƯỚC Ở BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG VÀNH CẤPĐiện tâm đồ là một công cụ đơn giản, có vai trò quan trọng trong chẩn đoán xác định, chẩn đoán định khu, cũng như tiên lượng và theo dõi điều trị bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp. Giá trị của dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trong dự đoán tổn thương đoạn giữa động mạch liên thất trước ở bệnh nhân hội chứng vành cấp vẫn chưa được nhấn mạnh hoặc chưa được công nhận. Mục tiêu: Tìm hiểu mối liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trên điện tâm đồ với tổn thương đoạn giữa động mạch liên thất trướ cở bệnh nhân hội chứng vành cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 401người bệnhHội chứng vành cấplần đầu (bao gồm214 bệnh nhân NMCT có ST chênh lên và 187 bệnh nhân NMCT không có ST chênh lên), được chụp ĐMV qua da tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 8 năm 2020 đến tháng 8 năm 2021. Kết cục chính là tổn thương hẹp MLAD ≥ 70% và MLAD là ĐMV thủ phạm. Kết quả nghiên cứu: Ở nhóm NMCT cấp có ST chênh lên dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL là biến duy nhất dự đoán có ý nghĩa tổn thương MLAD (OR = 2,17, CI 95% = 1,17-3,97, p<0,05). Dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương/ thủ phạm là đoạn giữa động mạch liên thất trước với độ nhậy, giá trị dự báo dương tính lần lượt là 64,5% , 71,1% và 78,7%, 50,4%; tuy nhiên độ đặc hiệu thấp 54,2% và 49,2%. Dấu hiệu T âm đơn độc ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương MLAD với độ đặc hiệu cao là 96,6%. Ở phân nhóm NMCT thành trước dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL có giá trị dự báo tổn thương/ thủ phạm là đoạn giữa động mạch liên thất trước với độ nhậy, giá trị dự báo dương tính lần lượt là70,2%; 71,1% và 78,5%; 68,8%. Ở phân nhóm NMCT thành sau không rõ mối liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL với tổn thương MLAD. Kết luận: Ở bệnh nhân NMCT có ST chênh lên, dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL trên điện tâm đồ có liên quan và có giá trị dự báo vị trí tổn thương hoặc thủ phạm là MLAD. Ở nhóm NMCT không ST chênh chưa thấy liên quan giữa dấu hiệu T âm ở chuyển đạo aVL với vị trí tổn thương hoặc thủ phạm là MLAD.
#Hội chứng mạch vành cấp #Điện tâm đồ #Sóng T âm #Đoạn giữa động mạch liên thất trước
Giảm tăng cường cơ tim trong một trường hợp hội chứng vành cấp với các động mạch vành bình thường: minh họa bằng máy chụp cắt lớp vi tính đa lát cắt 64 Dịch bởi AI Radiation Medicine - Tập 28 - Trang 763-766 - 2010
Một người đàn ông 48 tuổi đã đến khám với cơn đau ngực dữ dội bắt đầu 2 giờ trước và có sự nâng ST trên điện tâm đồ. Chụp cắt lớp vi tính tim mạch (CT) đã được thực hiện bằng máy quét đa detec-tor 64 lát cắt (MDCT) để đánh giá hẹp động mạch vành sau 3 giờ kể từ khi khởi phát. Chụp mạch vành CT cho thấy không có hẹp đáng kể ở các động mạch vành, nhưng hình ảnh cơ tim CT ở thì tâm thu cho thấy chủ yếu là giảm tăng cường nội tâm mạc ở vách trước. Chụp CT tim kết hợp chụp mạch vành và hình ảnh cơ tim đã cho thấy giảm tăng cường cơ tim trong một trường hợp hội chứng vành cấp với các động mạch vành bình thường, có thể liên quan đến rối loạn vi mạch do cơn đau thắt ngực co thắt hoặc đau thắt ngực vi mạch.
#hội chứng vành cấp #giảm tăng cường cơ tim #chụp cắt lớp vi tính #động mạch vành bình thường
Hội chứng khoang bụng cấp tính với hoạt động điện không có mạch trong quá trình nội soi đại tràng với thuốc an thần có ý thức Dịch bởi AI Journal of Clinical Anesthesia - Tập 12 - Trang 216 - 2000
Chúng tôi báo cáo một trường hợp hội chứng khoang bụng cấp tính, với hoạt động điện không có mạch, ở một bệnh nhân trải qua quy trình nội soi đại tràng qua một lỗ rò niêm mạc mới hình thành. Các đặc điểm lâm sàng liên quan đến hội chứng khoang bụng cấp tính này (khí phình ổ bụng) bao gồm sưng bụng đáng kể, ngừng tuần hoàn tim phổi, tím da nghiêm trọng và nhịp tim chậm tiến triển. Nói chung, áp lực ổ bụng tăng lên có thể gây ra nhiều tác động sinh lý có hại, có thể bao gồm giảm lưu lượng tim, thay đổi mối quan hệ thông khí-tưới máu, và giảm trở về tĩnh mạch. Độ lớn của mỗi tác động có thể phụ thuộc vào độ lớn của áp lực ổ bụng tăng lên. Sự thành công trong những nỗ lực phục hồi ban đầu không nên làm giảm sự chú ý cần thiết đối với các bệnh nhân này, vì các vấn đề khác có thể được phát hiện.
#Abdominal compartment syndrome #adverse event #colonoscopy #electrical activity #pulseless #resuscitation #sedation conscious
Tác Động Chống Viêm Của Varespladib Methyl Ở Bệnh Nhân Đái Tháo Đường Bị Hội Chứng Động Mạch Vành Cấp Tính Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 25 - Trang 539-544 - 2011
Nồng độ và hoạt tính của phospholipase A2 tiết ra nhóm IIA (sPLA2−IIA) có liên quan đến nguy cơ gia tăng các biến cố tim mạch ở bệnh nhân hội chứngnh động mạch vành cấp tính (ACS). Nghiên cứu này đánh giá sự khác biệt cơ bản trong nồng độ sPLA2-IIA và các chỉ số viêm khác ở bệnh nhân ACS có và không có tiểu đường, cũng như phản ứng của biomarker viêm với việc ức chế sPLA2 chọn lọc. Tác động của thuốc ức chế sPLA2 varespladib methyl 500 mg mỗi ngày và giả dược đối với những thay đổi liên tiếp trong các chỉ số viêm và lipid được xem xét trên 624 bệnh nhân ACS được điều trị theo quy chuẩn bao gồm atorvastatin 80 mg mỗi ngày. So với bệnh nhân không tiểu đường, bệnh nhân tiểu đường có nồng độ sPLA2-IIA cơ bản cao hơn (p = 0.0066), hs-CRP (p = 0.0155), và IL-6 (p = 0.009). Sau 8 tuần điều trị (điểm chính của nghiên cứu), varespladib methyl đã giảm 83.6% mức độ sPLA2-IIA trung vị ở bệnh nhân tiểu đường và giảm 82.4% ở bệnh nhân không tiểu đường (p = 0.33). Mức hs-CRP và IL-6 trung vị đều giảm ở cả bệnh nhân tiểu đường và không tiểu đường được điều trị bằng varespladib methyl, nhưng những khác biệt này không có ý nghĩa thống kê rõ ràng sau 8 tuần (p = 0.57 và p = 0.97 tương ứng). Varespladib làm giảm đáng kể phản ứng viêm sau ACS ở cả những người có và không có tiểu đường. Các phản ứng này lớn hơn ở những bệnh nhân tiểu đường so với những bệnh nhân không tiểu đường.
#sPLA2−IIA #viêm #hội chứng động mạch vành cấp tính #tiểu đường #varespladib methyl
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN HỘI CHỨNG ĐỘNG MẠCH VÀNH CẤP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẢI DƯƠNGMục tiêu: Đánh giá kết quả can thiệp động mạch vành qua da điều trị bệnh nhân (BN) hội chứng động mạch vành (ĐMV) cấp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 50 BN hội chứng ĐMV cấp có can thiệp ĐMV qua da tham gia nghiên cứu từ tháng 02/2022 - 3/2023 tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương. Kết quả: 50 BN tham gia nghiên cứu với tuổi trung bình là 67,46, 76,0% là nam giới. Tỷ lệ đường vào động mạch quay là 84,0%. BN được can thiệp 1 stent (62,0%), 2 stent (34,0%), 3 stent (4,0%). Sau can thiệp, tỷ lệ ST chênh lên đã giảm từ 70% xuống còn 38%, tỷ lệ nhịp xoang tăng lên từ 74 - 98%. Phân suất tống máu (EF) sau can thiệp tăng hơn so với trước can thiệp (49,34 ± 7,75% so với 45,38 ± 7,46%), p < 0,05. Biến chứng chủ yếu là tụ máu quanh vị trí chọc mạch là 18,0%. Kết quả thành công về mặt thủ thuật (tái lập dòng chảy TIMI III sau can thiệp) và thành công về lâm sàng (BN xuất viện) đều là 100%. Kết luận: Kết quả can thiệp đã đạt được hiệu quả, 100% BN được thực hiện thành công kỹ thuật và ổn định xuất viện.
#Can thiệp động mạch vành qua da #Hội chứng động mạch vành cấp
Các biomarker stress oxy hóa trong nước bọt ở bệnh viêm nướu mãn tính và hội chứng động mạch vành cấp tính Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 21 - Trang 2345-2353 - 2016
Nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ biomarker stress oxy hóa (OS) trong nước bọt của bệnh nhân viêm nướu mãn tính (CP) và hội chứng động mạch vành cấp tính (ACS) và thiết lập mối tương quan của chúng với các tham số nha chu và các chỉ số sự kiện tim mạch. Nghiên cứu hiện tại đã tuyển chọn 24 bệnh nhân mắc ACS và CP (nhóm ACSCP), 24 bệnh nhân chỉ mắc ACS (nhóm ACS), 24 bệnh nhân chỉ mắc CP (nhóm CP) và 24 người khỏe mạnh làm chứng. Chỉ số cao răng (PI), chỉ số nướu, chảy máu khi thăm khám, độ sâu túi nha chu (PPD) và mất kết dính lâm sàng đã được ghi nhận. Các chỉ số cho sự kiện tim mạch bao gồm protein phản ứng C nhạy cảm cao (hsCRP) trong huyết thanh và fibrinogen trong huyết tương. 8-Hydroxydeoxyguanosine (8-OHdG), carbonyl protein (PC), malondialdehyde (MDA) và khả năng chống oxy hóa toàn phần (TAOC) được sử dụng như các biomarker OS. Mức độ 8-OHdG, MDA và PC trong nước bọt cao hơn đáng kể ở nhóm ACSCP, ACS và CP so với nhóm chứng khỏe mạnh (p < 0.05). Có mối tương quan đáng kể giữa mức độ PC trong nước bọt với PI hoặc PPD (p < 0.05) cũng như giữa mức độ 8-OHdG trong nước bọt với tất cả các tham số nha chu (p < 0.05). Mức độ TAOC trong nước bọt có tương quan với cả hsCRP huyết thanh và fibrinogen trong huyết tương (p < 0.05). Mức độ MDA trong nước bọt có tương quan với tất cả các tham số nha chu và biomarker cho các sự kiện tim mạch (p < 0.05). Mức độ biomarker OS trong nước bọt cao hơn ở các nhóm bệnh so với nhóm chứng. Chúng cũng tương quan với các tham số nha chu lâm sàng và các chỉ số cho các sự kiện tim mạch ở bệnh nhân ACS, có hoặc không có CP. Các biomarker OS trong nước bọt có thể đóng vai trò như công cụ chẩn đoán cho các bệnh tim mạch và/hoặc bệnh nha chu.
#stress oxy hóa #viêm nướu mãn tính #hội chứng động mạch vành cấp tính #biomarker #nước bọt
Hội chứng chèn ép kênh gấp đùi ở bệnh nhân nữ 18 tuổi dẫn đến thiếu máu chi nghiêm trọng cấp tính: Một báo cáo ca bệnh Dịch bởi AI International Journal of Surgery Case Reports - Tập 37 - Trang 113 - 2017
Bối cảnh: Hội chứng chèn ép kênh gấp đùi là một nguyên nhân hiếm gặp không phải xơ vữa dẫn đến tắc mạch máu và thiếu máu chi. Trình bày ca bệnh: Bệnh nhân là một nữ giới 18 tuổi khỏe mạnh, đã đến phòng cấp cứu với tình trạng thiếu máu chi dưới bên trái cấp tính. Các triệu chứng của cô bắt đầu với cơn đau nhẹ ở chân một cách đột ngột khoảng hai tháng trước. Trong 72 giờ trước khi trình diện, cô đã phát triển triệu chứng đau dữ dội, da tái nhợt, liệt, mất mạch ở bàn chân, tê bì và hiện tượng lạnh bất thường ở chi. Do tình trạng thiếu máu nặng, cô đã được đưa ngay đến phòng mổ để thực hiện chụp mạch và can thiệp. Chụp mạch ban đầu cho thấy tình trạng tắc mạch ở động mạch đùi nông và động mạch khoeo, cùng với sự không lưu thông của động mạch chày hoặc động mạch ở bàn chân. Cô đã trải qua thủ thuật lấy huyết khối cơ học qua da và khởi đầu liệu pháp tiêu huyết khối hướng dẫn bằng catheter. Sau 48 giờ liệu pháp tiêu huyết khối và lấy huyết khối cơ học lặp lại, chụp cắt lớp vi tính (CT) đã được thực hiện và cho thấy sự chèn ép bên ngoài của động mạch đùi nông trong kênh gấp đùi và cục máu khối mãn tính còn lại. Siêu âm tim và CT động mạch chủ ngực cũng được thực hiện, và kết quả đều âm tính, do đó loại trừ các nguồn khả thi khác gây tắc mạch. Cô đã tiếp tục thực hiện phẫu thuật thăm dò, cắt bỏ một dải cơ gân bất thường chèn ép động mạch đùi nông bên trái và cắt bỏ huyết khối động mạch đùi nông bên trái ở vùng tắc mạch. Bệnh nhân hồi phục tốt mà không gặp phải các biến chứng hậu phẫu và có thể quay lại các hoạt động hàng ngày trong 3 tuần sau phẫu thuật. Kết luận: Kiến thức về các rối loạn mạch máu hiếm gặp không phải xơ vữa, chẳng hạn như hội chứng chèn ép kênh gấp đùi, là vô cùng quan trọng khi điều trị bệnh nhân có triệu chứng thiếu máu chi và không có các yếu tố nguy cơ truyền thống.
#Adductor canal compression syndrome #Acute limb ischemia #Thrombolysis #Mechanical thrombectomy #Femoral artery reconstruction